Thuyết học tập là gì? Bài viết ngày hôm nay chúng tôi xin chia sẻ tới các bạn trình bày và giải thích phân tích về các Thuyết học tập.
1, Thuyết học tập là gì?
Thuyết học tập (tiếng Anh: Learning Theory) là một ngành của sư phạm và tâm lý học giáo dục. Mô tả cách học sinh tiếp thu, xử lý và ghi nhớ kiến thức trong quá trình học tập. Thuyết học tập cũng tin rằng các yếu tố như nhận thức, cảm xúc, ảnh hưởng của môi trường và kinh nghiệm trước đây đóng một vai trò nhất định trong việc “hiểu”, “tiếp thu, thay đổi cách nhìn của thế giới” và “tiếp thu kiến thức và kỹ năng”.
2, Trình bày và giải thích phân tích về các Thuyết học tập
Thuyết học tập chủ yếu được chia thành bốn hệ thống lý thuyết:
Chủ nghĩa hành vi (Behaviorism): Liên quan đến việc học tập như một kết nối giữa kích thích và phản ứng (S-R). Một quá trình thử và sai (thử và sai). Trong số đó, nó được chia thành các ràng buộc cổ điển (đại diện là Pavlov và John Broads Watson). Và các ràng buộc hành vi (đại diện là Thorndike và Skinner).
Chủ nghĩa nhận thức: Trên cơ sở chủ nghĩa hành vi phản ánh, chủ nghĩa nhận thức tập trung vào quá trình xử lý thông tin trong tâm trí. Quan điểm tiêu biểu là lý thuyết xử lý thông tin của Gagne. Mô hình xử lý thông tin của Gagne giải thích một cách có hệ thống quá trình tự nhận thức thông tin của người học. Từ trí nhớ ngắn hạn, trí nhớ dài hạn, cho đến quá trình phản ứng với môi trường bên ngoài.
Chủ nghĩa kiến tạo: Tin rằng học tập là sự hiểu biết hoặc cái nhìn sâu sắc về tình hình và sự thay đổi của cấu trúc nhận thức.
Chủ nghĩa nhân văn: Con người học vì nhu cầu. Học thuyết này nói về việc học từ quan điểm của giáo dục toàn diện. Có ba nhà tâm lý học nhân văn chính: Maslow, Combs và Karl Rogers.
(1) Thuyết học tập chủ nghĩa hành vi
Hành vi là một trong những trường phái tâm lý học chính ở Hoa Kỳ. Và nó cũng là một trong những trường phái có ảnh hưởng lớn nhất đến tâm lý học phương Tây. Điểm chính của nó là tâm lý học không nên nghiên cứu ý thức, nó chỉ nên nghiên cứu hành vi.
Vì ý thức là không thể đoán trước. Nên chỉ cần nghiên cứu dưới một loại kích thích nào đó, cá thể có loại hành vi nào là được. Do đó, lý thuyết học tập của chủ nghĩa hành vi chỉ nghiên cứu cách thức tạo ra hành vi cá nhân.
Ví dụ, Paplov tin rằng do sự kết hợp lặp đi lặp lại của các kích thích không điều kiện và các kích thích có điều kiện. Cá thể sẽ tạo ra các hành vi có điều kiện. Tức là các kích thích xảy ra trước và hành vi xảy ra sau.
Việc học tập của cá nhân là một hành vi mang tính đáp ứng. Skinner tin rằng việc hình thành hành vi cá nhân là do sự củng cố sau hành vi. Tức là hành vi có trước tác nhân kích thích. Và việc học tập của cá nhân là một hành vi mang tính thao tác.
>> Lấy ví dụ cụ thể trong cuộc sống về nhận thức lý tính và nhận thức cảm tính
(2), Thuyết học tập chủ nghĩa nhận thức
Thuyết học tập chủ nghĩa nhận thức được biết đến như là cuộc cách mạng thứ hai của tâm lý học. Chủ nghĩa nhận thức ra đời từ sự đối lập với chủ nghĩa hành vi. Đối lập với lý thuyết của học phái chủ nghĩa hành vi.
Chủ nghĩa nhận thức tin rằng sự khác biệt giữa con người và động vật là con người có ý thức và tư duy. Vì vậy chủ nghĩa nhận thức ủng hộ nghiên cứu ý thức và phản đối nghiên cứu hành vi.
Chủ nghĩa nhận thức cho rằng học tập là những gì con người cảm nhận được thông qua tri giác và tri thức. Và là sự tổ chức và xử lý những điều khách quan của bộ não con người.
(3), Thuyết học tập chủ nghĩa kiến tạo
Nói một cách chính xác, không có trường phái kiến tạo trong tâm lý học. Nhưng quan điểm của nhiều nhà tâm lý học nhận thức tương tự nhau. Nên họ gọi đó là chủ nghĩa kiến tạo.
Chủ nghĩa kiến tạo là một lý thuyết về kiến thức và học tập. Nó nhấn mạnh sự chủ động của người học. Nó tin rằng học tập là một quá trình mà người học tạo ra ý nghĩa và xây dựng sự hiểu biết dựa trên kiến thức và kinh nghiệm ban đầu của họ.
Quá trình này thường được hoàn thành trong sự tương tác văn hóa xã hội. Chủ nghĩa kiến tạo và chủ nghĩa nhận thức đều nhấn mạnh ý thức của con người. Và khẳng định rằng học tập là quá trình xử lý thế giới khách quan của bộ não con người.
Nhưng chủ nghĩa kiến tạo lại nhấn mạnh tính chủ quan của quá trình này. Nhấn mạnh sự phong phú và khác biệt trong kinh nghiệm của người học.
(4), Thuyết học tập chủ nghĩa nhân văn
Tâm lý học chủ nghĩa nhân văn nổi lên ở Hoa Kỳ vào những năm 1950-1960. Được sáng lập bởi Maslow. Với đại diện là Rogers.
Thuyết học tập chủ nghĩa nhân văn không chỉ phản đối chủ nghĩa hành vi đánh đồng con người với động vật. Chỉ nghiên cứu hành vi của con người mà không tìm hiểu bản chất bên trong của con người. Mà còn phê phán Freud chỉ nghiên cứu bệnh thần kinh và bệnh nhân tâm thần. Mà không xem xét đến tâm lý của người bình thường. Nên được gọi là lực lượng thứ ba trong tâm lý học.
Cả chủ nghĩa nhân văn và chủ nghĩa kiến tạo đều nhấn mạnh vào việc lấy người học làm trung tâm. Nhưng chủ nghĩa kiến tạo nhấn mạnh sự phong phú và khác biệt trong thế giới kinh nghiệm của người học. Còn chủ nghĩa nhân văn nhấn mạnh giá trị, lý tưởng, cảm xúc và tiềm năng của người học.