Con Ron (Don) là con gì (Con ron biển-con ron rừng là con gì-cách chế biến con ron rừng ron biển-Con hến biển và hến nước ngọt là con gì-con dúi là con gì-con nhím là con gì-Con dắt là con gì)

Con ron rừng

Nhím đuôi cọ (Atherurus macrourus) hay còn gọi là con ron rừng là một loài gặm nhấm trong họ Hystricidae. Nó được tìm thấy ở Trung Quốc, Bhutan, Ấn Độ, Lào, Malaysia, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam.

Đặc điểm hình thái con ron rừng

Con ron chiều dài đầu 36-60 cm, dài đuôi 14-20 cm, trọng lượng 1,0-4,3 kg. Thân dài, đầu nhỏ, mắt nhỏ, tay chân ngắn và mập, tai tròn và ngắn, mắt và tai rất nhỏ. Hộp sọ nhỏ, vòm hợp tử không mở rộng, hốc mũi rất mở rộng, có 20 răng với các chân răng nông. Đỉnh đầu và cổ hai bên đầu có màu nâu.

Màu lông ở lưng trên từ nâu sẫm đến nâu xám, sẫm ở giữa và trắng bẩn ở gốc. Mặt bụng có màu nâu dưới hàm, và phần còn lại từ trắng đến nâu nhạt. Đuôi màu trắng bẩn. Chân tay màu nâu.

Hầu như toàn bộ cơ thể được bao phủ bởi các gai phẳng có rãnh. Cổ không có ria mép. Đuôi được bao phủ bởi những gai ngắn có vảy, và phần cuối được tạo thành bởi những gai cứng, có hình bàn chải. Nổi tiếng vì có gai trên thân, thẳng và cong về phía sau, gai quay dày và thẳng ở lưng, mông và đuôi, là những cơ quan quan trọng để phòng thủ chống lại kẻ thù tự nhiên; gai dễ rụng hơn, một tư thế điển hình để chống lại kẻ thù. là quay lưng lại với nhau.

Đầu đuôi có một chùm lông tròn, dày màu trắng hoặc màu kem. Mỗi sợi lông có vảy dày, phía trên to ra, hình dạng giống như một đám “chuông nhỏ”, khi đi lại, những “chuông nhỏ” này va vào nhau tạo ra những tiếng lách cách, tiếng lách cách, tiếng lách cách hàng chục. cách xa hàng mét. có thể nghe thấy. Điều này như một lời cảnh báo để ngăn chặn những kẻ săn mồi. Các gai dài nhất nằm ở khu vực giữa phía trên của lưng. Các gai dài khoảng 10 cm.

Những con vật này có thể đi bộ nhanh nhẹn, leo cây và bơi giỏi. Chân sau của chúng có năm ngón chân, một phần có màng, với móng vuốt thẳng cùn và một ngón chân cái thấp. Lòng bàn chân để trần và có đệm lót.

Đặc tính sinh hoạt

Sống về đêm, nói chung là trên cạn, thỉnh thoảng leo cây. Ăn rễ, củ và rau xanh. Chúng là động vật ăn cỏ và ăn rễ, củ, quả và quả mọng của nhiều loại thực vật. Hầu hết thích ăn trái cây, rau, trồng cây con và các loại cây trồng khác. Con ron đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình sự đa dạng hóa và lan rộng của các nghề đặc hữu, chẳng hạn như đào hang của nhím Ấn Độ khuyến khích sự nảy mầm của nhiều hạt giống cây trồng. Trong các khu vực nông nghiệp, chúng ăn các loại cây trồng như đậu phộng, khoai tây và bí ngô. Nhím ở Châu Phi cũng có thể ăn thực vật có độc đối với gia súc. Một số loài nhím có thể trèo cây và ăn trái cây từ nhiều loại cây khác nhau.

Con ron rất khéo léo trong việc xử lý thức ăn bằng hai bàn chân trước của chúng, “ghim” chặt thức ăn xuống đất, nhai kỹ mới ăn được. Thông thường, nhím kiếm ăn một mình, mặc dù đôi khi chúng ăn đôi với nhau theo ba con. Thỉnh thoảng chúng cũng ăn xương, đưa chúng vào lỗ để nghiến răng hoặc hấp thụ phốt phát trong đó

Đặc tính sinh sản

Hành vi giao phối thường do con cái bắt đầu trước và con cái sẽ chủ động tiếp cận con đực, nâng đuôi và mông lên, đồng thời hướng lông về phía con đực. Con đực sau đó bò lên lưng con cái từ phía sau để giao phối. Sinh sản 2 lứa / năm, mỗi lứa 1-2 con, thời gian mang thai 100-110 ngày, chuột con đẻ ra trong ổ cách nhau bằng cỏ trong hệ thống hang bên dưới, chuồng nuôi lót cỏ mềm hoặc lá rụng. Chuột con là con non, có lông phủ đầy trên cơ thể, mắt mở và ngay sau đó lông phủ có thể biến thành gai, rời ổ sau 1 tuần.

Con ron con sơ sinh nặng từ 300-330 gam, sau 9-14 ngày có thể ăn thức ăn đặc. Mặc dù chúng cũng được chăm sóc bởi một nhím cái trong 13-19 tuần, nhưng chúng bắt đầu tự kiếm ăn sau 4-6 tuần tuổi. Số lượng nhím mỗi lứa tương đối ít, 60% đẻ một lứa, 30% nhím hai lứa, nhím hoang dã chỉ đẻ một lứa vào mùa hè.

Con ron biển

Con ron biển là loài sinh vật cùng họ với con hến, trai, với lớp vỏ ngoài cứng. Loài sinh vật này xuất hiện nhiều ở các vùng biển Việt Nam, vùng nước lợ.

Con hến biển và hến nước ngọt là con gì

Họ hến

Lamellibranchia (Lamellibranchia) đề cập đến một lớp động vật thân mềm, thuộc chi Mollusca, còn được gọi là Bivalvia hoặc Acephala. Tất cả các loài valvulopbrae đều sống trong nước, hầu hết chúng sống ở biển và một số ít sống ở nước ngọt. Khoảng 20.000 loài phân bố rộng rãi. Nói chung, chúng di chuyển chậm, một số sống trong bùn, một số sống bằng chân và một số đục đá hoặc gỗ để câu cá. Tất cả các loài thuộc lớp này đều có thể ăn được, và một số loài có thể tạo ra ngọc trai.
Là một lớp động vật thân mềm, có khoảng 20.000 loài. Cơ thể có hai lớp áo và hai lớp vỏ nên được gọi là hai mảnh vỏ (Bivalvia); đầu biến mất gọi là Acephala; bàn chân có hình lưỡi rìu gọi là Pelecypoda; mang hình cánh hoa nên gọi là vạt.

Tất cả đều là thủy sinh, hầu hết sống ở đại dương, chỉ chiếm một phần nhỏ sản xuất nước ngọt. Cơ thể dẹp bên, đối xứng hai bên, có hai lớp vỏ, gọi là hai mảnh vỏ. Đầu bị thoái hóa, không có râu và mắt, không có các cơ quan ở đầu như răng, lưỡi và hàm nên gọi là tật đầu. Trên bề mặt bụng của cơ thể, có các bàn chân dẹt và hình rìu ở bên, chúng được gọi là chân trục. Trong khoang có lớp áo của cơ thể có các mang hình vạt, còn được gọi là mang mang. Tim bao gồm một tâm thất và hai phần phụ tâm nhĩ, chúng thường đi qua trực tràng. Một cặp thận, một đầu mở trong khoang màng ngoài tim và đầu kia mở trong khoang màng tim. Hệ thống thần kinh đơn giản và bao gồm ba cặp hạch, não, bàn chân và các cơ quan bên. Các cơ quan giác quan cực kỳ kém phát triển. Nói chung là lưỡng tính. Phát triển qua các giai đoạn ấu trùng gàu và ấu trùng đĩa

Con dúi là con gì

Con dúi hay chuột tre (danh pháp khoa học: Rhizomyidae) là một loài động vật thuộc họ Chuột tre, chi Chuột tre. Chuột tre hoang dã rất quý, trên thế giới có 3 chi và 6 loài: Chuột tre châu Phi 2 loài (đặc hữu Đông Phi), chuột tre 3 loài, chuột tre 1 loài. Loài chuột tre chủ yếu sinh sống ở các khu rừng nhiệt đới và cận nhiệt đới, rừng rậm và rừng tre ở miền đông châu Phi và miền nam châu Á.

Chuột tre có dạng như một con chuột chũi, bề ngoài cứng cáp như một con zokor. Hình trụ. Đầu cùn và tròn, mõm lớn, mắt nhỏ và tai ẩn trong lớp lông. Phần đuôi được bao phủ đều bởi những sợi lông dài và mảnh, và da có thể nhìn thấy qua góc nhìn. Bàn chân trước nhỏ và móng vuốt ngắn, nhưng khỏe và thích hợp để đào bới. Móng thứ hai và thứ ba gần bằng nhau.

Hộp sọ khỏe và rắn chắc, vòm hợp tử loe ra, gờ xương nhô cao, cơ bắp phát triển tốt; răng cửa hàm trên đặc biệt dày với tổng số 16 răng. Trong số đó, loại chuột tre Trung Quốc có thân mập và hình trụ. Các chi ngắn, nhưng mập mạp và có móng vuốt, là cơ quan vận động và là công cụ đào hang để kiếm thức ăn. Đuôi ngắn, răng cửa dày và răng hàm ngắn, mang đặc điểm của loài gặm nhấm.

Chuột tre trưởng thành dài khoảng 30 đến 40 cm, các loài riêng lẻ, chẳng hạn như chuột tre lớn, có thể đạt chiều dài cơ thể 45 cm và nặng từ 2 đến 4 kg; các ngón chân khỏe và móng vuốt nhọn; toàn bộ Cơ thể được bao phủ bởi lớp lông dài, nhưng đuôi không có lông hoặc ngắn và mỏng, tương đối dài. Toàn thân có màu xám đen và đen. Màu lông lưng của con trưởng thành xám nâu, có hàng trăm sợi lông hình kim nhọn, mõm và hai bên có màu nhạt hơn, lông ở bụng tương đối thưa, màu trắng và sẫm, có ở giữa cũng là những sợi lông mịn sáng bóng, có thể nhìn thấy qua lớp lông. Da màu hồng, mặt sau của bàn chân và đuôi của từng cá thể có màu nâu xám.

Con nhím là con gì

Nhím là một thuật ngữ chung để chỉ một lớp động vật có vú Nhím thuộc phân họ Erinaceinae, với tổng số 5 chi; trong số đó, Erinaceus là loài nhím phổ biến nhất, phân bố rộng rãi ở châu Âu, bắc Á.

Nhím là một loài động vật có vú nhỏ với chiều dài cơ thể dưới 25 cm, một con nhím trưởng thành có thể nặng tới 2,5 kg. Lưng và hai bên thân có gai, đầu, đuôi và mặt bụng có lông; miệng nhọn và dài, tai nhỏ, các chi ngắn, đuôi ngắn; mặt trước. và bàn chân sau có 5 ngón chân, giống cây cỏ, và một số loài có bốn ngón ở bàn chân trước; khi cuộn tròn thành quả bóng thì không nhìn thấy đầu và chân. Có từ 36 đến 44 chiếc răng, tất cả đều có đầu nhọn, thích hợp ăn côn trùng, trừ phần bụng, toàn thân có gai, đuôi ngắn cũng vùi trong gai. Khi sợ hãi, đầu của nó cúi xuống mặt bụng, và thân nó cuộn lại thành một quả bóng, cuộn thành một quả cầu gai, bao phủ đầu và tứ chi, và dựng gai khắp người để tự vệ. Không giống như nhím, nhím không thể rụng gai. Nhím có mũi rất dài, xúc giác và khứu giác phát triển tốt, thức ăn ưa thích của chúng là kiến ​​và mối.

Nhím sống tự do trong tự nhiên sẽ loại bỏ nhộng, chuột và rắn cho các công viên, sân vườn, và là những người làm vườn không công. Tất nhiên, đôi khi không thể tránh khỏi việc ăn trộm một hoặc hai quả, điều đó chỉ có nghĩa là nó đang cực kỳ đói. Mặc dù anh ta yếu và chậm chạp, nhưng anh ta có một bộ kỹ năng tốt để bảo vệ bản thân. Nhím có những chiếc gai mập mạp, thậm chí chiếc đuôi ngắn của chúng cũng bị chôn vùi trong những chiếc gai. Khi bị kẻ thù tấn công, đầu của nó cúi xuống mặt bụng, cơ thể cuộn tròn thành một quả bóng, che kín đầu và tứ chi, toàn thân có những chiếc gai cứng như thép, giống như “những chiếc kẹp sắt” trên chiến trường cổ đại, khiến cho người tấn công không thể bắt đầu. Nhím xây hang làm tổ, ban ngày ẩn náu trong tổ, sau khi trời chạng vạng tối mới đi ra ngoài.

Con dắt là con gì

Con dắt là một loài động vật thuộc họ hến, thường sống ở các vùng nước mặn và nước lợ.

Cách chế biến con ron rừng ron biển

Con ron biển có thể chế biến nhiều món ăn giống như trai, sò, hến… như hấp, nấu canh, nấu cháo, xào…

Con ron rừng có thể làm món nướng, rang, xào…