Loài linh cẩu
Linh cẩu, là động vật có vú ăn thịt dạng feliform của họ Hyaenidae. Chỉ với bốn loài còn tồn tại (mỗi loài trong chi riêng của chúng), nó là họ sinh vật nhỏ thứ năm trong bộ Ăn thịt và là một trong những họ nhỏ nhất trong lớp Mammalia. Mặc dù độ đa dạng thấp, linh cẩu là thành phần độc đáo và quan trọng của hầu hết các hệ sinh thái châu Phi.
Mặc dù về mặt phát sinh loài gần giống mèo và viverrids, như là một phần của phân loài Feliformia, linh cẩu có hành vi và hình thái tương tự như răng nanh ở một số yếu tố do quá trình tiến hóa hội tụ. Linh cẩu là những kẻ săn mồi bắt mồi bằng răng chứ không phải bằng móng vuốt. Linh cẩu ăn thức ăn nhanh chóng và có thể tích trữ thức ăn, đồng thời bàn chân chai sạn với những móng vuốt lớn, cùn và không thể bẻ gãy được thích nghi để chạy và thực hiện những cú ngoặt gấp. Tuy nhiên, các hoạt động chải lông, đánh dấu mùi hương, thói quen đi vệ sinh, giao phối và hành vi của cha mẹ của linh cẩu đều phù hợp với hành vi của các linh trưởng khác.
Linh cẩu là đặc điểm nổi bật trong văn hóa dân gian và thần thoại của nền văn hóa loài người sống cùng với chúng. Linh cẩu thường được coi là loài đáng sợ và đáng bị khinh miệt. Trong một số nền văn hóa, linh cẩu được cho là ảnh hưởng đến tinh thần của con người, cướp mộ, trộm gia súc và trẻ em. [5] Các nền văn hóa khác liên kết họ với thuật phù thủy, sử dụng các bộ phận cơ thể của họ trong y học cổ truyền châu Phi.
Đặc điểm hình thái của linh cẩu
Linh cẩu là loài động vật giống linh cẩu, có cổ dài, chi sau ngắn hơn chi trước, thân ngắn hơn, vai cao và hông thấp; đường giữa lưng sau cổ có lông linh cẩu dài; răng lớn, có răng tiền hàm hình nón cứng cáp, răng thưa phát triển và răng hàm bị thoái hóa. Hàm đủ dày và khỏe để có thể cắn xuyên xương. Trông nó hơi giống chó, đầu ngắn và tròn hơn chó, lông màu vàng nâu hoặc rám nắng, có nhiều đốm nâu đen không đều. Do chân sau thấp hơn chân trước nên cách đi và chạy của nó tư thế không thanh thoát cho lắm, nhưng chạy rất nhanh và có sức chịu đựng. Chúng có thể chạy với tốc độ lên tới 50-60 km / h, chạy đường dài mà không thấy mệt. Linh cẩu đốm châu Phi có lực cắn trung bình 460kg, so với sư tử, vua châu Phi “lực cắn chỉ 360kg.
Linh cẩu (linh cẩu đốm) nhỏ, có sọc và chủ yếu sống đơn độc, dựa vào khứu giác phát triển để kiếm ăn xác thịt. Linh cẩu nâu (Hyaena brunnea) lớn và phân bố ở bờ biển Tây Nam châu Phi, thường ra bãi biển tìm cua, bắt cá… Linh cẩu đốm (Crocuta crocuta) chỉ có ở Châu Phi, to lớn và săn mồi theo bầy đàn, ngoài việc ăn xác động vật, nó có thể săn linh dương. Chó sói đồng cỏ (Proteles cristatus) là loài ăn kiến chuyên biệt.
Thói quen sinh hoạt của linh cẩu
Xã hội của linh cẩu
Linh cẩu dẫn đầu một hệ thống xã hội mẫu hệ săn mồi theo nhóm, dựa vào khứu giác phát triển và hàm răng chắc khỏe để kiếm thức ăn cho xác thịt. Con cái nặng hơn con đực khoảng 10% và là bên mạnh hơn và chiếm ưu thế về giới tính.
Linh cẩu cái có địa vị thấp hơn ở thế hệ sau sẽ có địa vị thấp hơn, và những con chó cái khác phải giúp chăm sóc chó con. Khoảng cách mỗi lần đi săn tối đa là 100 km, trong quá trình đi săn chắc chắn có linh cẩu bị thương, con bị thương ở lại hang để canh giữ địa điểm và chăm sóc con con. Sau khi đoàn săn trở về đến hang, chúng sẽ mang thức ăn cho các con khác khác ăn.
Linh cẩu sống thành từng bầy, một bầy có thể lớn tới hàng chục con hoặc nhỏ nhất là chục con. Thủ lĩnh của mỗi bầy là một con linh cẩu cái khỏe mạnh. Tổ chức xã hội của linh cẩu rất nghiêm ngặt theo thứ bậc, và khi kiếm ăn, “nữ thủ lĩnh” luôn có thể lấy được phần thịt to nhất và ngon nhất, và đây là điều tất nhiên.
Linh cẩu có quyền tự do đáng kể với tiền đề là sống theo bầy đàn, thường đi lang thang một mình, săn bắn một mình và tự kiếm ăn. Các thành viên của các nhóm thường không ở cùng nhau trong thời gian dài. Khi hai con linh cẩu khác giới gặp nhau, con đực luôn để con cái đi trước. Nếu chỉ có một miếng thịt, con đực sẽ để lại cho con cái.
Tiếng hú của linh cẩu
Trên thảo nguyên châu Phi, người ta có thể nghe thấy tiếng hú kỳ quái từ sâu trong thảo nguyên sau khi trời tối, đó là những con linh cẩu đang quấn lấy con mồi của chúng hoặc chiến đấu với nhau. Chúng có thể thực hiện hơn một chục tiếng hú, điều này rất quan trọng đối với sự tồn tại của chúng vì chúng thường hoạt động về đêm và phải dựa vào các cuộc gọi khác nhau để tăng cường mối liên kết giữa các thành viên trong nhóm.
Nhưng những tiếng hú này hầu hết đều rất đặc biệt, thường khiến mọi người cảm thấy choáng váng khi nghe chúng. Đặc biệt khi chúng tìm thấy thức ăn, hoặc khi chúng đang nóng, chúng phát ra tiếng kêu mạnh càng khiến chúng kinh hãi hơn.
Bởi vì linh cẩu thường tạo cho con người một hình ảnh rất khó chịu và lười biếng, nên ở một số nơi, có những truyền thuyết vô lý rằng chỉ cần chúng xuất hiện trong các khu định cư của con người, chúng sẽ mang đến cái chết.
Khi đàn linh cẩu ở bên nhau, chúng giống như một bầy trẻ con vui đùa, ồn ào và rất sôi nổi. Chúng giao tiếp với nhau bằng tai và đuôi, và giữ liên lạc với nhau bằng các tiếng hú của chúng. Đôi khi chúng gầm gừ to, đôi khi cười đắc ý, đôi khi ngân nga khe khẽ, đôi khi cười khúc khích và âm thanh có thể vang lên đến hàng nghìn mét.
Con mồi của linh cẩu
Linh cẩu thích săn mồi vào ban đêm, và linh cẩu có thể đuổi theo ngựa vằn hoặc linh dương đầu bò với tốc độ lên đến 40 km một giờ với tốc độ lên đến 65 km một giờ. Linh cẩu đốm có thể săn mồi đơn lẻ, theo cặp hoặc theo nhóm ba con hoặc theo nhóm. Đi săn theo hàng đơn lẻ thường không mang lại hiệu quả cao và 1/5 lần là tốt; tuy nhiên, săn theo nhóm có thể dẫn đến 8/11 lần. Một bộ phim tài liệu cho thấy khi linh cẩu săn mồi một mình, nếu chúng tìm thấy thức ăn, chúng sẽ hú lên để gọi cả đàn đến, thậm chí còn xua đuổi những con báo to lớn và mạnh mẽ hơn.
Linh cẩu là một lớp thú dữ có kích thước trung bình mạnh mẽ. Chúng săn mồi chung cho các loài ăn cỏ cỡ lớn và trung bình như linh cẩu, ngựa vằn, linh dương đầu bò, và thậm chí giết chết những con trâu rừng châu Phi nặng nửa tấn. Ngược lại, sư tử thường sống dưới cơ làm mồi cho linh cẩu đốm.
Linh cẩu được mệnh danh là “kẻ cơ hội” trong vương quốc động vật.
Ngoài việc tự săn mồi, chúng thường chộp lấy những con mồi bị bắt bởi các loài ăn thịt khác, chẳng hạn như báo hoa mai và thậm chí cả sư tử. Lực cắn của chúng thực sự rất chung chung, hơi kém so với báo hoa mai. Chỉ khi tỷ lệ số lượng lớn hơn 10: 1, chúng mới có thể giật con mồi khỏi miệng báo hoa mai.
Khi linh cẩu săn mồi theo đàn, chúng xúm lại và đồng thời cắn xé bụng, cổ, tứ chi và khắp cơ thể của con mồi. Để ngăn bầy sư tử tới cướp thức ăn của chúng, cả đàn linh cẩu đốm đã cùng nhau nuốt chửng bữa ăn. Linh cẩu là loài ăn thịt hiệu quả cao, chỉ trong vài chục phút, con mồi của chúng chỉ còn trơ lại xương.
Lãnh thổ của linh cẩu
Mỗi nhóm linh cẩu đốm có hang ổ riêng. Cỏ dại mọc ở cửa hang, hang kéo dài tứ phía. Mỗi nhóm linh cẩu đốm có phạm vi ảnh hưởng riêng, nói chung là khoảng 20 km vuông. Chúng bảo vệ nghiêm ngặt vùng ảnh hưởng của mình và không cho các nhóm linh cẩu đốm khác xâm phạm.
Nếu có hiện tượng xuyên biên giới, hai bên sẽ đối đầu nhau, thậm chí xung đột, nhưng không ít vụ ẩu đả như vậy. Khi một đàn linh cẩu săn đuổi con mồi đến lãnh thổ của một nhóm linh cẩu đốm khác, nếu số lượng của nhóm kia nhiều hơn thì nhóm linh cẩu này sẽ nhường con mồi cho nhóm kia mà chúng đã săn được.
Một khi linh cẩu rời khỏi lãnh thổ của chúng hơn 1000 mét, chúng sẽ mất cảm giác an toàn.
Theo nhóm, linh cẩu đốm trưởng thành, đực hoặc cái, đánh dấu lãnh thổ bằng cách mở hậu môn của chúng và tống chất tiết ra khỏi tuyến hậu môn khi bị kích thích.
Sinh sản
Linh cẩu không có mùa sinh sản cố định, sống theo bầy đàn và săn mồi theo hệ thống xã hội mẫu hệ. Con cái thường nặng hơn con đực 12%. Chúng mạnh hơn và chiếm ưu thế trong hai giới. Chỉ có một con linh cẩu cái trong những con linh cẩu cái mới có quyền sinh con, và những con linh cẩu cái khác phải giúp chăm sóc bầy con. Con đực thường tán tỉnh con cái bằng cách vẫy đuôi.
Thời gian mang thai của động vật cái là 3-3,5 tháng, mỗi lứa đẻ từ 1-4 con. Đàn con được sinh ra với đôi mắt mở to và nặng khoảng 1,5 kg, chúng sống khoảng 11 tháng trong hang động bỏ hoang của vườn quốc gia, trong giai đoạn này, con cái thường xuyên phải ra ngoài săn mồi để đàn con được dồi dào. sữa và thực phẩm.
Trong 4 tháng đầu tiên sau khi sinh, linh cẩu con sống hoàn toàn bằng sữa, và ngay cả khi chúng đã mọc răng, chúng hầu như không ăn thịt. Khi được 3-4 tuần tuổi, chúng có thể di chuyển trên mặt đất. Giống như tất cả các động vật con khác, chúng rất tò mò về mọi thứ, và chúng nhanh chóng học cách hiểu thế giới bên ngoài thông qua mũi, tai và mắt.
Con cái rất cảnh giác, và ngay cả con đực cũng không được phép đến gần tổ và con non của nó, vì đôi khi một số con đực đói sẽ ăn thịt con non. Sau khi sinh 10 tháng, con non có thể đi theo con cái để chơi đùa. Linh cẩu thành thục sinh dục vào khoảng 3 tuổi. Tuổi thọ khoảng 14 năm.
Linh cẩu đốm
Linh cẩu đốm (Crocuta crocuta), còn được gọi là linh cẩu cười, là một loài linh cẩu, hiện được xếp vào thành viên duy nhất còn tồn tại của chi Crocuta, có nguồn gốc từ châu Phi cận Sahara. Nó được IUCN liệt kê là loài ít được quan tâm nhất do có phạm vi rộng khắp và số lượng lớn ước tính từ 27.000 đến 47.000 cá thể. Tuy nhiên, loài này đang bị suy giảm bên ngoài các khu bảo tồn do mất môi trường sống và săn trộm. Loài này có thể có nguồn gốc từ Châu Á, và từng tồn tại khắp Châu Âu trong ít nhất một triệu năm cho đến cuối Thế Pleistocen muộn.
Linh cẩu đốm là thành viên lớn nhất được biết đến trong bộ Hyaenidae, và được phân biệt rõ ràng hơn với các loài khác nhờ hình dáng gần giống gấu, tai tròn, bờm ít nổi bật hơn, da có đốm, răng giả có nhiều mục đích hơn, ít núm vú hơn và sự hiện diện của dương vật giả ở con cái. Nó là loài động vật có vú duy nhất không có cửa âm đạo bên ngoài, thay vào đó nó có một dương vật giả.