Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá và trao đổi hàng hoá, tức là giá trị của hàng hoá phụ thuộc vào thời gian lao động cần thiết trong xã hội, hàng hoá trao đổi theo nguyên tắc ngang giá.
Trong xã hội sở hữu tư nhân, quy luật giá trị điều tiết sản xuất một cách tự phát, kích thích cải tiến công nghệ sản xuất, thúc đẩy sự phân hóa của những người sản xuất hàng hóa.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, do nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hóa kế hoạch dựa trên sở hữu công cộng nên kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa phải có ý thức căn cứ và vận dụng quy luật giá trị để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Giá trị của hàng hoá do thời gian lao động cần thiết của xã hội quyết định, hàng hoá đó được trao đổi với giá trị tương đương. Trong quá trình sản xuất hàng hoá và trao đổi, chủ yếu là so sánh công nghệ sản xuất hàng hoá, sự tồn tại của người phù hợp nhất và sự tồn tại của người phù hợp nhất, nhằm không ngừng thúc đẩy sự phát triển không ngừng của năng suất.
Trên thực tế, thỏa thuận giữa giá cả và giá trị của hàng hóa là ngẫu nhiên, nhưng sự mâu thuẫn thường xuyên xảy ra. Điều này là do mặc dù giá cả hàng hóa dựa trên giá trị, nhưng chúng cũng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, khiến chúng thay đổi.
Trong trường hợp bình thường, yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự thay đổi giá cả là cung và cầu hàng hóa. Trên thị trường, khi thiếu hụt một loại hàng hóa nào đó, giá của hàng hóa đó có thể tăng cao hơn giá trị của nó; và khi cung của hàng hóa đó vượt quá cầu, giá của hàng hóa đó sẽ giảm xuống dưới giá trị của nó.
Quy luật giá trị điều chỉnh sự phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động trong các ngành sản xuất. Điều này là do quy luật giá trị đòi hỏi trao đổi hàng hóa phải thực hiện nguyên tắc trao đổi tương đương, và trao đổi tương đương được thực hiện thông qua sự hạn chế hai chiều của giá cả và cung cầu.
Vì quy luật giá trị đòi hỏi hàng hoá phải trao đổi theo giá trị được xác định bằng thời gian lao động cần thiết trong xã hội, nên ai cải tiến công nghệ, thiết bị trước thì năng suất lao động tương đối cao, thời gian lao động cá biệt để sản xuất hàng hoá nhỏ hơn thời gian lao động cần thiết trong xã hội và thu được nhiều lợi nhuận hơn.
Vì vậy, trong cùng một ngành phải có sự cạnh tranh, tình hình này sẽ kích thích người sản xuất hàng hoá cải tiến công cụ sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng cường quản lý kinh doanh, giảm tiêu dùng, giảm giờ lao động cá biệt.
Thúc đẩy sự tồn tại của những người sản xuất hàng hóa phù hợp nhất trong cạnh tranh là kết quả của tác động thứ hai. Trong nền kinh tế hàng hoá có sự cạnh tranh, những người sản xuất hàng hoá được khuyến khích tìm mọi cách để rút ngắn thời gian lao động cá nhân và tăng năng suất lao động, điều này cũng sẽ thúc đẩy sự tồn tại của những người thích hợp nhất.