CON MỄN – Con mang rừng – Con hoẵng ( đầy đủ)

Con mang rừng

Mang đỏ (tên khoa học: Muntiacus muntjak) là loài hoẵng lớn nhất, với chiều dài cơ thể khoảng 1 mét, chiều dài đuôi từ 17-21 cm và trọng lượng từ 25-30 kg.

Đây là loài động vật sống đơn độc, có tính nhút nhát và thận trọng, kiếm ăn chủ yếu vào ban đêm, sáng sớm và chiều tối, ẩn mình trong các bụi cây để nghỉ ngơi vào ban ngày. Khi sợ hãi, nó phát ra tiếng sủa rất lớn giống tiếng chó sủa. Phạm vi hoạt động rất cố định, khi bị truy đuổi và bỏ chạy, dù có chạy bao xa, cuối cùng chúng cũng sẽ quay trở lại khu vực hoạt động ban đầu.

Sống trong rừng và các bụi đồi ở độ cao thấp. Ăn cành cây, lá, hoa, quả và cây trồng. Nó có khả năng sinh sản mạnh và có thể giao phối quanh năm, thời gian mang thai khoảng 210 ngày, mỗi lứa đẻ được một đàn con, đạt độ tuổi thành thục sinh dục khi được một tuổi. Da lộn là một nguyên liệu thô quan trọng để làm đồ da. Phân bố ở Trung Quốc, Brunei, Indonesia, Malaysia và Thái Lan.

Con mễn là con gì

Con mễn hay còn gọi là con mang, con hoẵng.

Đặc điểm của con hoẵng

Mang đỏ là một trong những loài hoẵng lớn hơn, nặng 20-33 kg và dài khoảng 1100 mm. Con đực có cặp sừng dài và cong vào trong, chiều dài của nó là cao nhất trong số các loài hoẵng. Hàm trên có răng nanh mọc dày. Các tuyến trán nổi rõ, nhưng các hốc nước mắt nhỏ hơn so với các loài hươu khác. Không có búi tóc rõ ràng trên trán.

Mặt của hoẵng đỏ tương đối dài và hẹp, có lông màu đen từ trán đến mõm. Có một tuyến trán rộng và rõ ràng ở mỗi bên từ tuyến dưới ổ mắt đến phân đôi sừng. Các tuyến trán dài và cuối cùng bắt chéo với nhau để tạo thành hình chữ “V.” Các chi mảnh mai. Những con thú đực có sừng, đôi sừng ngắn, chẻ đôi, kéo dài thẳng ra sau, gốc sừng dài, đầu sừng cong vào trong, hai đầu sừng đối nhau.

Con thú cái không có sừng, nhưng đỉnh trán và phần tương ứng của sừng con thú đực có những chỗ lồi ra một chút, và có những bó lông đen đặc biệt, giống như sừng.

Hộp sọ của hươu đực hơi có hình tam giác. Nửa trước của xương mũi hẹp. Răng tiền hàm và răng hàm trên gặp nhau ở giữa xương mũi, phần trán của xương trán bị lõm vào giữa, và các mép bên được nhúng vào vòng tròn giữa xương mũi và xương tuyến lệ.

Hai đường viền bên của xương trán rõ ràng là nhô cao và kéo dài đến gốc sừng, sừng đực kéo dài thẳng từ đường viền sau của xương trán. Phần gốc sừng dài hơn bất kỳ loài hươu nào và chiều dài của nó gấp đôi chiều dài của sừng. Xương đỉnh dốc xuống. Xương tuyến lệ hơi thuôn dài. Lỗ tuyến lệ chiếm khoảng 2/3 diện tích của tuyến lệ. Răng tiền hàm, xương mũi không kết nối với xương tuyến lệ và răng hàm trên không kết nối với xương trán.

Do đó, một khoảng trống hình chữ nhật rõ ràng được hình thành giữa răng tiền hàm, răng hàm trên, xương tuyến lệ và xương mũi. Hàm trên của hươu vỏ cây không có răng cửa. Răng nanh đực khá phát triển, giống răng nanh, mọc chìa ra phía sau, răng nhọn và sắc, răng nanh cái rất kém phát triển, chiều cao của thân răng bằng hoặc ngắn hơn một chút so với chiều cao của răng tiền hàm thứ ba, khá dễ thấy.

Con hoẵng Việt Nam

Loài hoẵng đỏ có lông màu nâu đỏ vào mùa hè, màu nâu sẫm vào mùa đông và phần lớn cơ thể của chúng có màu đỏ hoặc đất son. Bụng màu trắng xám. Cơ thể chuột, bên trong mông và đuôi có màu trắng tinh. Lông gáy và lông lưng sẫm màu hơn. Cằm trắng, hai bên mặt và cổ màu nâu sáng, sau tai màu nâu sẫm, bên tai trong có lông trắng thưa, cằm và hầu có màu trắng nhạt, ngực màu nâu sáng và có một mảng trắng trên nách, màu sắc của bụng sau thay đổi từ vàng nhạt đến trắng tinh.

Môi trường sống con hoẵng

Mang đỏ chủ yếu sinh sống trong các bụi rậm ở các vùng đồi núi và rừng cây lá rộng ở độ cao thấp, cỏ cũng là nơi nó thường sinh sống, cũng có thể tìm thấy ở các làng mạc, ngõ ngách nông thôn. Thích đơn độc hoặc lưỡng tính. Trại hoạt động cả ngày lẫn đêm, và thường xuyên vào các ngõ ngách trong làng để trộm rau hoặc các loại cây trồng khác. Sinh cảnh ở rừng núi dưới 3000 mét, đặc biệt là rừng nguyên sinh lá rộng.

Thói quen sống con hoẵng

Hươu đỏ thường được tìm thấy quanh khu rừng, nhất là vào buổi sáng và chiều tối, ban ngày ít hoạt động, ít khi nghe thấy tiếng gọi của chúng từ 10 giờ đến 2 giờ chiều, nếu chúng ra ngoài kiếm ăn. Họ cũng rất thận trọng và cẩn thận, bước đi rất chậm rãi, bước chân nhẹ nhàng, không phát ra tiếng “cát, cát” khi các con giáp khác di chuyển xung quanh.

Con mang đỏ

Mang đỏ có thính giác nhạy bén, bản tính nhút nhát, nếu bị quấy rầy thì chạy lung tung, nếu bị thương nhẹ chảy máu thì càng hoảng sợ không thể cử động được, lúc này nó mới chạy loạn dễ bị con người hoặc thú dữ khác bắt. Khi sợ hãi, nó thường phát ra tiếng sủa ngắn và to nên còn được gọi là hươu sủa.

Cơ thể khéo léo và các chi mảnh mai của hoẵng đỏ có thể di chuyển tự do trong rừng rậm và cỏ, và có thể đi bộ nhanh chóng. Nó chủ yếu ăn cành và lá của nhiều loại thực vật, nhưng cũng thích ăn trái cây, lá non và chồi, đôi khi ăn trộm các loại cây trồng nông nghiệp như đậu nành, đậu phộng, vv, các cây ưa kiềm.

Hình ảnh con nai

Hình ảnh con hươu

Hình ảnh con hoẵng

Hình ảnh con mang rừng

Con hoẵng sinh sản

Các loài hoẵng có khả năng sinh sản cao và sinh sản quanh năm. Con cái 8 tháng tuổi và con đực thành thục sinh dục lúc 12 tháng. Nói chung, giao phối trong 1-2 tháng, thời gian mang thai là 6 tháng, và sinh sản trong 7-8 tháng, và mỗi lứa đẻ 1-2 con. Đôi khi mùa sinh sản có thể được kéo dài đến cuối mùa thu.

Các loại hoẵng – mang rừng

  • Muntiacus muntjak annamensis
  • Muntiacus muntjak aureus
  • Muntiacus muntjak bancanus
  • Muntiacus muntjak curvostylis
  • Muntiacus muntjak grandicornis
  • Muntiacus muntjak malabaricus
  • Muntiacus muntjak menglalis
  • Muntiacus muntjak montanus
  • Muntiacus muntjak muntjak
  • Muntiacus muntjak nainggolani
  • Muntiacus muntjak nigripes
  • Muntiacus muntjak peninsulae
  • Muntiacus muntjak pleicharicus
  • Muntiacus muntjak robinsoni
  • Muntiacus muntjak rubidus
  • Muntiacus muntjak vaginalis
  • Muntiacus muntjak yunnanensis

Con hoẵng có nằm trong sách đỏ không

Con hoẵng nằm trong Danh sách các loài động vật hoang dã trên cạn được Nhà nước bảo vệ có lợi hoặc có giá trị kinh tế và nghiên cứu khoa học quan trọng do Cục quản lý lâm nghiệp nhà nước ban hành.

Nằm trong Danh sách Đỏ của IUCN 2016 về các loài bị đe dọa, ver 3.1 – Mối quan tâm ít nhất (LC).

Tình trạng con hoẵng ở Việt Nam hiện nay

Kẻ thù tự nhiên của hoẵng đỏ chủ yếu là các loài thú ăn thịt khác nhau như hổ, báo, chó rừng, chó sói, … và những gốc cây, thân gãy sau khi bị thú xé xác và ăn thịt thường có thể tìm thấy trong môi trường sống.

Hoẵng đỏ đôi khi ăn trộm mùa màng và thích ăn lá và chồi non của cây họ đậu, nhưng thiệt hại của nó ít nghiêm trọng hơn so với lợn rừng và nhím. Cần đặc biệt lưu ý rằng hươu đỏ bản chất khá nhút nhát.

Con hươu

Hươu là một họ động vật có vú trong bộ Artiodactyla. Chúng có kích thước khác nhau và là động vật nhai lại có sừng, phân bố ở Âu-Á, Nhật Bản, Philippines, Indonesia, Bắc Mỹ, Nam Mỹ ở phía bắc vĩ độ nam 40 ° và phía tây nam châu Phi. Có khoảng 34 loài trên thế giới, với tổng số 16 loài, có khoảng 52 loài.

Loài hươu nai có đặc điểm là sừng rắn có hai đốt, nhìn chung chỉ có con đực có một cặp sừng, con cái không có sừng. Chiều dài cơ thể từ 0,75 đến 2,90 mét và trọng lượng từ 9 đến 800 kilôgam.

Con nai và con hoẵng

Họ hươu nai Cervidae có khoảng 43 loài trong 16 chi. Được chia thành 4 phân họ: phân họ hươu Cervinae, phân họ hươu Hydropotinae, phân họ muntia Muntiacinae, và phân họ hươu răng trống Odocoileinae.

Nhung hươu là một loại dược liệu quý, thịt có thể ăn được, da có thể dùng được. Hươu được xếp vào danh sách những loài động vật được bảo vệ trên khắp thế giới. Tuần lộc là loài vật nuôi được thuần hóa duy nhất trong họ hươu.

Đặc điểm hình thái của con hươu

Hốc mắt trũng, tuyến mặt, tuyến chân, không có túi mật. Chiều dài cơ thể từ 0,75 đến 2,90 mét và trọng lượng từ 9 đến 800 kg. Bụng 4 ngăn, dạng nhai lại. 32 đến 34 răng. Chân thon và chạy tốt. Hầu hết các loài đều có sừng, và những loài không có sừng có răng nanh phía trên giống như chiếc răng nanh.

Thói quen sống của con hươu

Động vật ăn cỏ điển hình, ăn cỏ, vỏ cây, cành cây và cây non.

Môi trường sống của con nai

Sống ở lãnh nguyên, rừng, sa mạc, bụi rậm và đầm lầy.

Con mang lớn

Con đực có sừng chia đôi; con cái không có sừng; con mang non chủ yếu là đốm, một số loài biến mất khi trưởng thành, và một số loài vẫn tồn tại suốt cuộc đời. Có 4 chi.

Con nai

Họ hươu, nai là một họ thuộc phân bộ Động vật nhai lại thuộc bộ Artiodactyla, hiện có 18 chi và 41 loài trên thế giới. Chúng bao gồm hươu đuôi trắng, hươu la, hươu đỏ Canada, nai sừng tấm, hươu đỏ, tuần lộc, hươu sika, hươu đen, hươu trứng phương Tây, v.v. Tất cả hươu đực (trừ hươu sao) và tuần lộc cái đều có sừng trên đầu được thay mới hàng năm, có thể phân biệt với các loài động vật khác như linh dương, chúng có sừng trên đầu nhưng không thay sừng suốt đời.

Mặc dù hươu xạ phân bố ở châu Á, hươu cao cổ ở châu Phi và hươu chuột nước ở vùng nhiệt đới châu Phi và rừng châu Á đều thuộc họ hươu theo nghĩa rộng, chúng không thuộc họ hươu trong phân loại động vật, mà thuộc họ xạ hương. , họ hươu cao cổ và hươu chuột.

Loài hươu phổ biến ở mọi lục địa, ngoại trừ Châu Đại Dương, Nam Cực và Châu Phi.

Thường chỉ có hươu đực mới có gạc, tuần lộc là loài hươu duy nhất có gạc ở cả con đực và con cái, nhưng con cái có gạc nhỏ hơn nhiều. Vào mỗi mùa đông, những chiếc gạc của chúng rụng đi và vào mùa xuân, chúng bắt đầu mọc những chiếc gạc mới, sau đó chúng được bao phủ bởi một lớp da gọi là nhung. Khi gạc được hình thành, gạc rơi ra.

Một con tuần lộc cái rụng gạc vào mùa xuân. Ngoài ra, hươu đực hay cái đều không có sừng và chúng sử dụng những chiếc răng nanh dài để tự vệ. Hươu đực có cả ngà và sừng, trong khi hươu cái không có ngà và sừng.

Không giống như hầu hết các loài động vật, hươu không có nhà cố định. Đối với loài hươu, cái gọi là nhà chính là lãnh thổ. Họ ngủ trong bụi cây vào ban đêm. Vào mùa đông, khi lãnh thổ của hươu được bao phủ bởi lớp tuyết dày, chúng sẽ tìm đến một khu vực khác có tuyết tương đối nông. Khi nhiều con hươu chọn địa điểm này, chúng sẽ phân chia địa điểm.