Lý thuyết Sinh học 7 về trùng giày và trùng biến hình chuẩn xác nhất

Paramecium/Paramecia  hay còn gọi là trùng giày, là một chi sinh vật nhân chuẩn, đơn bào, thường là được nghiên cứu như một đại diện của nhóm ciliate.

Paramecia phổ biến rộng rãi trong môi trường nước ngọt, nước lợ và biển và thường rất nhiều trong các bể và ao tù đọng. Bởi vì một số loài dễ trồng và dễ dàng liên hợp và phân chia, nó đã được sử dụng rộng rãi trong các lớp học và phòng thí nghiệm để nghiên cứu các quá trình sinh học.

Tính hữu ích của nó với tư cách là một sinh vật mô hình đã khiến một nhà nghiên cứu về ciliate mô tả nó là “chuột trắng” của loài Ciliophora.

Paramecia là một trong những loài có liên kết đầu tiên được các nhà kính hiển vi nhìn thấy vào cuối thế kỷ 17. Chúng có lẽ đã được biết đến với nhà tiên phong về sinh vật học người Hà Lan, Antonie van Leeuwenhoek, và được Christiaan Huygens đương thời mô tả rõ ràng trong một bức thư năm 1678.

Hình minh họa sớm nhất được biết đến về một Paramecium đã được xuất bản ẩn danh trên tạp chí Triết học Giao dịch của Hiệp hội Hoàng gia vào năm 1703.

Paramecia ăn các vi sinh vật như vi khuẩn, tảo và nấm men. Để thu thập thức ăn, trùng giày thực hiện các chuyển động với các lông mao để quét các sinh vật bắt mồi, cùng với một số nước, qua rãnh miệng và vào tế bào. Thức ăn đi từ rãnh miệng có lông mao vào một cấu trúc hẹp hơn được gọi là khoang chứa lông (gullet).

Từ đó, các phần tử thức ăn đi qua một lỗ nhỏ gọi là cytostome, hay miệng tế bào, và di chuyển vào bên trong tế bào. Khi thức ăn đi vào tế bào, nó sẽ được tập hợp lại thành các không bào thức ăn, chúng được đóng lại theo định kỳ và được giải phóng vào tế bào chất, nơi chúng bắt đầu lưu thông qua cơ thể tế bào.

Các không bào thức ăn được luân chuyển bằng sự di chuyển theo dòng của các chất bên trong tế bào, một quá trình được gọi là quá trình xyclosis hay dòng tế bào chất. Khi không bào thực phẩm di chuyển theo, các enzym từ tế bào chất sẽ xâm nhập vào nó để tiêu hóa các chất bên trong.

Khi quá trình tiêu hóa bằng enzym diễn ra, thành phần không bào trở nên có tính axit hơn. Trong vòng năm phút sau khi không bào hình thành, độ pH của các chất bên trong nó giảm từ 7 xuống còn 3.

Khi các chất dinh dưỡng đã tiêu hóa đi vào tế bào chất, không bào co lại. Khi không bào, với những chất đã được tiêu hóa hoàn toàn, đến lỗ hậu môn, nó sẽ vỡ ra và tống những chất thải của nó ra môi trường, ra bên ngoài tế bào.

Amoeba proteus (một loại amip) hay còn gọi là trùng biến hình, là một loại amip lớn có liên quan đến một chi amip khổng lồ khác. Sinh vật đơn bào này sử dụng các phần mở rộng được gọi là pseudopodia để di chuyển và ăn các sinh vật đơn bào nhỏ hơn. Thức ăn được bao bọc bên trong tế bào chất của tế bào trong không bào thức ăn, ở đó chất ăn vào sẽ bị phân hủy từ từ bởi các enzym.

Amoeba proteus sống trong môi trường nước ngọt và ăn động vật nguyên sinh, tảo, luân trùng, và thậm chí cả các loại amip nhỏ hơn khác. Amoeba proteus không màu, nhưng có thể có tạp chất màu có nguồn gốc từ thức ăn của nó.

Trùng biến hình sở hữu một nhân có vách dày chứa chất nhiễm sắc dạng hạt, và do đó là một eukaryote. Màng của nó bao gồm một lớp kép phospholipid tương tự như các sinh vật nhân thực khác.