Cân bằng phản ứng Na + O2 ra gì (và phản ứng Na2O + SO3)

Natri (Na) là một nguyên tố ở nhóm đầu tiên của bảng tuần hoàn và là một thành viên của các kim loại kiềm. Vì lớp vỏ hóa trị của nó chỉ có một electron độc thân nên rất dễ bị mất electron để tạo thành cation Na + mang điện tích dương. Đồng vị bền duy nhất của natri là natri-23.

Natri kim loại nguyên chất không tồn tại trong tự nhiên và phải được điều chế bằng các hợp chất chứa natri. Natri là nguyên tố phong phú thứ sáu trong vỏ trái đất, và hầu hết nó tồn tại trong các khoáng chất, chẳng hạn như fenspat, sodalit và đá muối (NaCl).

Hầu hết các muối natri có khả năng hòa tan cao: hàng trăm triệu ion natri được hòa tan trong nước từ các khoáng chất, vì vậy ion natri và ion clorua là những nguyên tố phổ biến nhất trong số các nguyên tố hòa tan trong đại dương.

Natri được Humphrey Davy phân hủy lần đầu tiên vào năm 1807 bằng phương pháp điện phân natri hydroxit. Các hợp chất của natri có nhiều ứng dụng, chẳng hạn như NaOH (dung dịch kiềm) có thể được sử dụng trong sản xuất xà phòng và NaCl (muối ăn) có thể được sử dụng làm chất khử ẩm. Nó cũng được một chất dinh dưỡng ở động vật và người.

Natri là một nguyên tố cần thiết cho tất cả động vật và thực vật. Ion natri là cation quan trọng nhất trong dịch ngoại bào (ECF), có ảnh hưởng quan trọng đến áp suất thẩm thấu của dịch ngoại bào và khoảng thời gian của dịch ngoại bào.

Bơm natri kali được sử dụng trong tế bào người để di chuyển ba ion kali ra bên ngoài tế bào và chuyển hai ion natri vào trong tế bào. Đo nồng độ ion bên trong và bên ngoài màng tế bào, ion kali là 40: 1 và ion natri là 1:10.

Trong tế bào thần kinh, khi tế bào thần kinh đứng yên, sự trao đổi điện tích màng tế bào sẽ gây ra sự dẫn truyền các xung thần kinh, được gọi là điện thế hoạt động, và natri là chìa khóa của hiệu ứng này.

Ở điều kiện tiêu chuẩn, natri là một kim loại bạc mềm. Trừ khi nó được ngâm trong dầu hoặc khí trơ (cũng là phương pháp bảo quản thông thường của nó), natri sẽ phản ứng với oxy trong không khí để tạo thành natri oxit có màu trắng.

Natri kim loại có thể dễ dàng cắt bằng dao và cũng là chất dẫn nhiệt và dẫn điện tốt. Do trọng lượng nguyên tử thấp và bán kính nguyên tử lớn, natri là kim loại có mật độ nguyên tử thấp thứ ba và là một trong ba kim loại có thể nổi trong nước. Hai kim loại còn lại là liti và kali.

Trong phản ứng ngọn lửa, natri và các hợp chất của nó có màu vàng, vì điện tử 3s bị kích thích sẽ phát ra một photon khi nó giảm từ 3p xuống 3s, và bước sóng của photon này là vạch D, là 589,3 nm.

Hiệu ứng quỹ đạo spin làm cho quỹ đạo 3p và vạch D bị tách thành hai, tương ứng ở 589,0 và 589,6 nm; và cấu trúc siêu mịn làm cho hai quỹ đạo phát ra nhiều vạch hơn.

Nguyên tử natri có 11 electron, nhiều hơn một electron so với khí hiếm neon. Năng lượng ion hóa thứ nhất và thứ hai của natri lần lượt là 495,8 kJ / mol và 4562 kJ / mol, vì vậy natri thường tạo thành các hợp chất ion có chứa cation Na +.

Phương trình hóa học:

4Na + O2 → 2Na2O
2Na + Cl2 → 2NaCl
2Na + S → 2Na2S
Na2O + H2O → 2NaOH
Na2O + CO2 -to→ Na2CO3
Na2O + SO2 -to→ Na2SO3
Na2O + 2HCl → 2NaCl + H2O
Na2O + SO3 → Na2SO