Cân bằng phản ứng H2SO4 + KCl = HCl + K2SO4 (nhận biết các dung dịch H2SO4, K2SO4, HCl, NaOH)

Axit sunfuric (H2SO4) thu được bằng một số cách, trong đó phổ biến nhất là “tiếp xúc”. Nguyên liệu thô là các loại quặng chứa lưu huỳnh khác nhau, chủ yếu là pyrit (sunfua sắt, FeS2). Trong giai đoạn đầu của quá trình, do kết quả của quá trình đốt cháy, lưu huỳnh đioxit SO2 được tạo thành. Sau đó, khí được làm sạch tạp chất và bụi và chuyển đổi bằng cách oxy hóa thành lưu huỳnh đioxit SO3, từ đó axit sunfuric H2SO4 đã được hình thành.

Ví dụ, bạn có một số mẫu chất lỏng, bao gồm cả axit sulfuric. Đầu tiên, bạn cần đảm bảo rằng nó thực sự có tính axit. Tất nhiên, không nếm thử các mẫu trong bất kỳ trường hợp nào. Lần lượt cho vào mỗi ống một đoạn kẽm. Những ống ngay lập tức bắt đầu phản ứng dữ dội với quá trình tiến hóa khí có thể chứa axit.

Tách chúng ra khỏi phần còn lại của mẫu và xác định vị trí của axit sunfuric. Với mục đích này, phản ứng định tính đặc trưng được sử dụng đối với các ion sunfat. Thêm vào mỗi ống nghiệm một lượng nhỏ dung dịch bari clorua (BaCl2). Nó phản ứng với axit sunfuric để ngay lập tức tạo thành kết tủa bari sunfat (BaSO4) đặc màu trắng theo sơ đồ sau:

BaCl2 + H2SO4 = BaSO4 + 2HCl

Lượng kết tủa này cho biết hàm lượng axit sunfuric trong mẫu thử.

Kali sunfat (công thức hóa học K2SO4) là một hợp chất được hình thành bởi sự kết hợp của các ion sunfat và ion kali. Chất rắn của nó là tinh thể hoặc bột dạng hạt hình lục giác hoặc hình thoi không màu hoặc trắng. Hòa tan trong nước, không hòa tan trong rượu, axeton và cacbon disunfua. Có vị đắng và mặn.

Kali sunfat có thể thu được bằng cách trộn axit sunfuric và kali hydroxit. Theo độ hòa tan tương đối nhỏ của K2SO4, kali sunfat có thể được điều chế bằng phản ứng phản ứng tổng hợp của kali clorua và amoni sunfat.

Natri hydroxit (NaOH) là sản phẩm phụ của quá trình sản xuất clo trong công nghiệp. Trong công nghiệp, khí clo được sản xuất hàng loạt bằng cách điện phân một lượng lớn nước muối bão hòa. Tuy nhiên, khi các ion clorua bị oxi hóa thành khí clo và thoát ra ngoài thì chỉ còn lại natri hiđroxit. trong dung dịch.

Trước thế kỷ 19, natri hydroxit thường được điều chế bằng cách đầu tiên tạo ra natri cacbonat tiền chất bằng phương pháp kiềm LeBlanc, sau đó nung ở nhiệt độ cao để phân hủy natri cacbonat thành natri oxit và carbon dioxide. Cuối cùng, natri oxit được hòa tan trong nước.

Axit clohydric (HCl) có thể bốc khói (xuất hiện khói trắng giống như hơi nước), đặc biệt là trong không khí ẩm. Nếu bạn nhìn kỹ, bạn chắc chắn sẽ nhận thấy tính chất này. Tuy nhiên, nếu bạn quyết định sử dụng một dấu hiệu tương tự, hãy đảm bảo tuân thủ các biện pháp phòng ngừa an toàn (cẩn thận vẫy lòng bàn tay để hướng không khí về phía bạn, không nghiêng bình chứa và không hít thở sâu).

Sau đó, lấy một cốc nhỏ (có thể chống lại) và nhỏ vào hai giọt: một – axit đang nghiên cứu, còn lại – dung dịch amoniac (amoniac). Nếu là axit clohiđric sẽ có khói trắng (bản thân axit clohiđric không bay lên trong một giọt). Phản ứng sau đây được thực hiện để tạo thành amoni clorua: NH3 + HCl → NH4Cl.

Bạn cũng có thể sử dụng các đặc tính hóa học khác. Tương tác với chất oxi hóa mạnh (thuốc tím, mangan đioxit) có giải phóng khí clo: 2KMnO4 + 16HCl → 5Cl2 ↑ + 2MnCl2 + 2KCl + 8H2O. Mùi clo thoang thoảng sẽ giúp bạn chắc chắn.

Sử dụng phương pháp quan trọng nhất – phản ứng với bạc nitrat. Trong ống nghiệm không có axit, thêm 2-3 giọt bạc nitrat (AgNO3 để lại vết đen trên da, nên dùng găng tay tác dụng tốt hơn). Sự xuất hiện của một kết tủa trắng giống như pho mát sẽ cho thấy rõ ràng sự hiện diện của các ion clorua. Phản ứng xảy ra như sau: AgNO3 + HCl = AgCl ↓ (váng trắng) + HNO3. Theo thời gian, kết tủa sẽ đông đặc lại, tạo thành lớp phủ trên thành ống.

Phương trình phản ứng: H2SO4 + 2KCl → 2HCl + K2SO4