Oxit sắt có công thức hóa học Fe2O3, là thành phần chính của gỉ và hematit. Nguyên nhân chính gây ra rỉ sét là do kim loại sắt phản ứng với độ ẩm và oxy trong môi trường có lẫn tạp chất cacbon, kim loại sắt sẽ bị gỉ sét.
Thermite bao gồm nhôm, sắt oxit và kali clorat được trộn và đốt cháy bởi một thanh magie, giải phóng một lượng nhiệt lớn để tạo ra nhôm oxit và sắt. XIN LƯU Ý: Phản ứng hóa học này sẽ gây ra cháy nổ.
Oxit sắt có thể được trộn với cacbon và đun nóng để tạo ra sắt và cacbon đioxit. Trong công nghiệp, than cốc và CO từ quá trình đốt cháy hoàn toàn than cốc thường được sử dụng để khử hematit để sản xuất gang (chứa 0,03% -2% cacbon).
Sự hiện diện của các hợp chất ion và nước: Nếu kim loại sắt tiếp xúc với dung dịch nước có nồng độ ion cao, kim loại sắt sẽ bị gỉ. Vì hợp chất ion là một chất điện ly, nó thúc đẩy sự giải phóng các electron trong kim loại, gây ra gỉ.
Ví dụ, có những giọt nước biển ở ngoài khơi, nước biển có chứa natri clorua, là một hợp chất ion làm cho kim loại sắt bị oxy hóa nhanh chóng. Ngay cả khi chỉ có nước, nó sẽ nhanh chóng hấp thụ các khí axit như carbon dioxide trong không khí và đẩy nhanh quá trình oxy hóa.
Ngoài ra, nhiều loại thép không gỉ có khả năng chống tạo ôxít rất tốt bằng cách tạo thành một lớp ôxít bảo vệ, nhưng khả năng chống hình thành clorua kém hơn.
Sự hiện diện của các hợp chất có tính axit: Các nhà máy thải ra khí axit làm gỉ kim loại đen. Do khí axit kết hợp với hơi ẩm trong không khí trở thành chất điện phân.
Nhiệt độ cao: Khi nhiệt độ cao, kim loại sắt sẽ bị gỉ.
Bề mặt bị xước hoặc bị xoắn: Kim loại sắt có thể bị gỉ nếu bị trầy xước hoặc móp méo. Vì bề mặt không bằng phẳng dễ tích tụ điện tử.
Tiếp xúc với kim loại ít phản ứng: Kim loại đen có thể bị gỉ nếu chúng tiếp xúc với kim loại ít phản ứng hơn như thiếc và đồng.
Chất chỉ thị gỉ nhận được bằng cách trộn kali ferricyanide và phenolphtalein, và nó sẽ chuyển sang màu xanh lam (xanh Prussian) khi gặp ion Fe2 + để kiểm tra mức độ oxi hóa của kim loại bị oxi hóa. Bằng cách phân tích Fe4 [Fe (CN) 6] 3 màu xanh lam đậm bằng máy so màu, có thể tính được lượng ion Fe2 + ban đầu.
Các thợ mỏ sử dụng hematit, có chứa oxit sắt, để tạo ra sắt để tạo ra thép, hợp kim, và những thứ tương tự.
Oxit sắt có màu hơi đỏ và thường được dùng làm chất màu. Thành phần chính của màu đỏ, đất son và các chất màu khác của Venice là oxit sắt.
Fe2O3 + 2Al → Al2O3 + 2Fe
6Fe2O3 → O2↑+ 4Fe3O4 (phương trình nhiệt phân)
3Fe2O3 + H2 → H2O + 2Fe3O4
Fe2O3 + 3H2 → 2Fe + 3H2O
Fe2O3 + CO → 2FeO + CO2↑
3Fe2O3 + CO → CO2↑+ 2Fe3O4
Fe2O3 + 3CO → 2Fe + 3CO2↑
Fe2O3 + 2NH3 → 2Fe + 3H2O + N2↑
Fe2O3 +3C → 3CO↑ +Fe
5Fe2O3 + 6P → 10Fe + 3P2O5
Fe2O3 +6HCl → 3H2O + 2FeCl3
Fe2O3 +3H2SO4 → Fe2(SO4)3 + 3H2O
Fe2O3 +6HNO3 → 2Fe(NO3)2 + 3H2O
Fe2O3 +6HI → 3H2O + I2 + 2FeI2
Fe2O3 +2H3PO4 → 3H2O + 2FePO4
Fe2O3 + 6NaOH → 3Na2O + 2Fe(OH)3↓
Fe2O3 + Fe → 3FeO
Một ví dụ về phương trình ion rút gọn: Fe2O3 +3H2SO4 → Fe2(SO4)3 + 3H2O
Fe2O3 + 6H+ → Fe3+ + 3H2O