Glucose (glucozơ) có công thức là C6H12O6. Glucose tinh khiết là những tinh thể không màu, có vị ngọt nhưng không ngọt bằng sucrose, dễ tan trong nước, ít tan trong etanol và không tan trong ete.
Thực vật có thể tạo ra glucose thông qua quá trình quang hợp. Nó có một loạt các ứng dụng trong sản xuất bánh kẹo và lĩnh vực dược phẩm. Glucozơ chứa năm nhóm hiđroxyl và một nhóm anđehit, có tính chất của đa chức và anđehit.
Dễ bị phân hủy khi đun nóng trong điều kiện kiềm. Nó nên được giữ chặt chẽ. Nó nhanh chóng được hấp thụ sau khi uống, và được sử dụng bởi các mô sau khi vào cơ thể con người.
C6H12O6 → C2H5OH + CO2
Nhóm chức anđehit trong phân tử có tính khử và có thể phản ứng với dung dịch bạc amoniac:
CHOH (CHOH) CHO + 2Ag (NH) OH— → CHOH (CHOH) COONH + 2Ag ↓ + 3NH + HO, bị oxi hóa thành glucozơ Axit amoni
Nhóm anđehit cũng có thể bị khử thành hexanol.
Trong phân tử có nhiều nhóm hiđroxyl, có thể tham gia phản ứng este hoá với axit.
Glucozơ trải qua phản ứng oxi hóa trong cơ thể sinh vật và tỏa nhiệt (CHO + 6O (oxi) + 6HO == 6CO + 12HO + năng lượng)
Có thể điều chế glucozơ bằng phản ứng thủy phân tinh bột dưới xúc tác của enzim hoặc axit sunfuric.
Quang hợp của cây: 6CO + 6HO (diệp lục, xúc tác ánh sáng mặt trời) -CHO + 6O
Phương trình phản ứng của glucozơ và đồng hiđroxit:
CHOH (CHOH) CHO + 2Cu (OH) -> CHOH (CHOH) COOH + CuO ↓ + 2HO.
Glucozơ bị phân hủy thành nước và khí cacbonic trong những điều kiện nhất định.
Thủy phân mantozơ: CHO + HO— → 2CHOH (CHOH) CHO
Thủy phân tinh bột và xenlulozơ: (CHO) + nHO— → nCHOH (CHOH) CHO
Dung dịch nước chứa đường thu được bằng cách thủy phân một phần tinh bột ngô ăn được bằng axit cấp thực phẩm và / hoặc các enzym sau khi tinh chế và cô đặc. Do mức độ thủy phân khác nhau, lượng D-glucose chứa có thể thay đổi rất nhiều. Những loại làm từ tinh bột ngô được gọi là “xi-rô ngô”.
Glucozơ có thể được điều chế từ tinh bột làm nguyên liệu bằng cách thủy phân với axit clohiđric hoặc axit sunfuric loãng. Nó cũng có thể được điều chế với tinh bột như một nguyên liệu thô dưới tác dụng của glucoamylase tinh bột.
Dung dịch glucozơ phản ứng với huyền phù đồng hiđroxit mới điều chế tạo kết tủa đỏ gạch. (Kết tủa màu vàng được hình thành khi nồng độ cao)
CHOH (CHOH) 4CHO + 2Cu (OH) — → CHOH (CHOH) COOH + CuO ↓ + 2HO
Lưu ý:
⑴ Nên pha hỗn dịch 2Cu (OH) mới tạo ngay khi sử dụng, không nên để lâu.
⑵ Khi điều chế huyền phù Cu (OH) mới thì dung dịch NaOH đã dùng phải dư.
⑶ Chất lỏng tham gia phản ứng phải được đun nóng trực tiếp đến sôi.
⑷ Tuy phân tử glucozơ có chứa nhóm chức anđehit nhưng d-glucozơ không chứa nhóm chức anđehit.
Phản ứng dung dịch glucozơ và dung dịch bạc amoniac đều có phản ứng tráng gương bạc
CHOH (CHOH) CHO + 2Ag (NH) OH) – → CHOH (CHOH) COONH + 2Ag ↓ + 3NH + HO
Lưu ý:
⑴ Thành trong của ống nghiệm phải sạch.
⑵ Không nên để dung dịch bạc-amoniac trong thời gian dài sau khi sử dụng.
⑶ Không thể sử dụng đèn sưởi ấm đun nước, đèn cồn để sưởi ấm trực tiếp.
⑷ Có thể thêm natri hydroxit để thúc đẩy phản ứng.
⑸ Có thể ngâm và rửa gương bạc trong dung dịch HNO loãng để loại bỏ.
Bạc sinh ra khi nung nóng sẽ bám vào thành ống nghiệm tạo thành gương bạc nên phản ứng này còn được gọi là phản ứng tráng gương bạc.
Nhỏ vài giọt rượu etylic vào chén rồi đốt, ta thu được phản ứng:
C2H5OH + 3O2 → 2CO2 + 3H2O
Nhỏ vài giọt dung dịch bạc nitrat vào ống nghiệm đựng dung dịch amoniac, lắc nhẹ. Thêm tiếp dung dịch glucozơ vào, sau đó đặt ống nghiệm vào trong cốc nước nóng. Phương trình phản ứng:
C6H12O6 + Ag2O → C6H12O7 + 2Ag