Cân bằng Ca(OH)2 + NaHCO3 = CaCO3 + H2O + Na2CO3 (viết phương trình ion rút gọn)

Canxi hydroxit (công thức hóa học: Ca (OH) 2) là chất rắn dạng bột màu trắng, sau khi thêm nước sẽ chia thành lớp trên và lớp dưới, dung dịch phía trên được gọi là nước vôi trong, phần huyền phù bên dưới được gọi là sữa vôi hoặc bùn vôi.

Canxi hydroxit là một loại kiềm mạnh, có khả năng khử trùng và sát trùng, có tác dụng ăn mòn da và vải. Canxi hydroxit có rất nhiều ứng dụng trong công nghiệp. Nó là một vật liệu xây dựng được sử dụng phổ biến và cũng được sử dụng như một chất diệt nấm và nguyên liệu hóa học.

Với sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại, vôi đã mở ra nhiều ứng dụng đa dạng trong nhiều lĩnh vực công nghiệp mới nổi ngoài việc là vật liệu chính cho các công trình xây dựng và dân dụng.

Ví dụ như luyện kim, thủy tinh, đường sôđa, giấy, da, cacbua canxi và hóa chất hữu cơ, gạch cacbon hóa, tấm cacbon hóa, cải tạo đất, xử lý nước, lọc khí,… đều sử dụng nhiều vôi.

Canxi hydroxit là chất bột màu trắng mịn ở nhiệt độ phòng, ít tan trong nước, dung dịch nước trong của nó thường được gọi là nước vôi trong, và hỗn dịch màu trắng đục bao gồm nước được gọi là sữa vôi. Và độ tan giảm khi nhiệt độ tăng. Nó không hòa tan trong rượu, hòa tan trong muối amoni và glycerin, và có thể phản ứng với axit để tạo ra muối canxi tương ứng. Ở 580 ° C, nó phân hủy thành canxi oxit và nước.

Sự thay đổi độ tan của canxi hiđroxit trong nước (100g) theo nhiệt độ (đơn vị: ° C) là:
0 độ -0.185 g
10 độ -0,176 g
20 độ -0.165 g
30 độ -0.153 g
40 độ -0,141 g
50 độ -0.138 g
60 độ -0.116 g
70 độ -0,106 g
80 độ -0.094 g
90 độ -0.085 g

Về vấn đề độ tan của canxi hiđroxit giảm khi nhiệt độ tăng, giải thích chính là canxi hiđroxit có hai hiđrat [Ca (OH) 2 · 2H2O và Ca (OH) 2 · 12H2O]. Độ hòa tan của hai hyđrat này lớn, và độ hòa tan của canxi hiđroxit khan là rất nhỏ. Khi nhiệt độ tăng, các hyđrat kết tinh này dần dần trở thành hiđroxit canxi khan, do đó độ tan của canxi hiđroxit giảm khi nhiệt độ tăng.

Canxi hydroxit tính hòa tan thấp, nó không có hại như natri hydroxit và các chất kiềm mạnh khác. Canxi hydroxit có thể tương tác với chất chỉ thị axit-bazơ: Dung dịch thử quỳ tím chuyển sang màu xanh lam khi gặp canxi hydroxit, dung dịch thử phenolphtalein không màu chuyển sang màu đỏ khi gặp canxi hydroxit.

Canxi hiđroxit phản ứng với khí cacbonic: CO2 + Ca (OH) 2 = CaCO3 ↓ + H2O

Canxi hiđroxit phản ứng với axit tạo ra muối và nước.Axit clohydric loãng phản ứng với canxi hiđroxit: 2HCl + Ca (OH) 2 = CaCl2 + 2H2O

Canxi hiđroxit phản ứng với một số muối để tạo thành bazơ khác và muối khác.
Dung dịch natri cacbonat phản ứng với canxi hiđroxit: Na2CO3 + Ca (OH) 2 = CaCO3 ↓ + 2NaOH

Amoni nitrat phản ứng với canxi hydroxit: 2NH4NO3 + Ca (OH) 2 = 2NH3 ↑ + 2H2O + Ca (NO3) 2

Magie clorua phản ứng với canxi hydroxit: MgCl2 + Ca (OH) 2 = CaCl2 + Mg (OH) 2 ↓

NaHCO3 phản ứng với canxi hydroxit: NaHCO3 + Ca(OH)2 → CaCO3+ NaOH + H2O
Phương trình ion thu gọn: Ca2+ + HCO3– + OH– → CaCO3 + H2O

Canxi hydroxit có tính kiềm, vì vậy nó có thể được sử dụng để giảm độ chua của đất, do đó cải thiện cấu trúc của đất. Hỗn hợp Bordeaux trong thuốc trừ sâu được làm từ sữa vôi (canxi hydroxit hòa tan trong nước) và dung dịch nước sunfat đồng theo một tỷ lệ nhất định.

Canxi hydroxit và cacbon đioxit trong không khí cũng sẽ phản ứng tạo thành canxi cacbonat không tan trong nước. Trong công nghiệp sản xuất đường, canxi hydroxit đầu tiên được sử dụng để trung hòa axit trong xi-rô, sau đó khí cacbonic được đưa vào phản ứng với canxi hydroxit còn lại tạo thành kết tủa được lọc ra để giảm vị chua của đường.